
- Tại chuyến đi thực tế thăm và kiểm tra mô hình thư viện phụ huynh tại Thái Bình ngày 26/9, Bộ trưởng Phạm Vũ Luận đã chia sẻ những suy nghĩ của mình đối với việc đọc sách của học sinh.  |
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận nghe học sinh nói chuyện đọc sách ở thư viện |
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận cho biết: “Thư viện trường học đã có từ lâu, nhưng hiệu quả hoạt động không như mong muốn, chưa tương xứng với đầu tư. Tôi cảm thấy phải tìm hiểu, cần có một mô hình thư viện trường học khác với mô hình hiện có”.
Với học sinh tiểu học, chúng tôi chưa đặt ra vấn đề đọc sách để tự học. Nhưng các em cần phải đọc để tạo thói quen đọc sách, để bồi dưỡng tâm hồn. Đọc sách sẽ giúp các em có năng lực cảm thụ và sự rung động tâm hồn.
Việc dạy người chỉ có thể thông qua dạy chữ. Nếu tạo thói quen biết đọc, có nhu cầu đọc, muốn đọc, đọc cảm thấy hay, đọc có chủ đích… sau này các em sẽ có kỹ năng tự học.
Từ đọc sách, việc dạy các em giữ gìn sách cũng giáo dục các em nhiều điều”.
Về mô hình tủ sách phụ huynh đã và đang phát triển mạnh mẽ tại Thái Bình, ông Luận cho rằng “cái gì chúng ta nghĩ ra đưa vào các quyết định hành chính hoặc sẽ có sức sống, hoặc không sống được, nhưng cái gì được người dân thừa nhận sẽ có sức sống lâu dài”.
Ông Luận nhấn mạnh trong chủ trương lớn xã hội hóa giáo dục, việc đóng góp tiền nong không phải là chủ yếu, mà là sự tham gia của xã hội góp phần cho giáo dục phát triển. Việc phát huy một cách có hiệu quả nhất thư viện, hình thành cho học sinh thói quen, kỹ năng đọc sách là một trong những mục tiêu của giáo dục đào tạo. Mục đích còn là để đổi mới cách dạy, cách học chuyển từ truyền thụ kiến thức một chiều sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất, và góp phần vào việc thay đổi quan niệm của cả học sinh, giáo viên trong việc dạy và học.
“Trước đây bố mẹ dẫn con đến trường và “trăm sự nhờ thầy”. Bây giờ cả xã hội tham gia vào việc giúp học sinh hình thành năng lực phẩm chất. Đồng thời, nhà trường tham gia xây dựng cộng đồng tốt đẹp.
Sự tham gia của phụ huynh, của xã hội vào việc đọc sách có nhiều ý nghĩa. Chúng ta “mở cổng trường” để các lực lượng xã hội tham gia giáo dục học sinh. Đồng thời “mở cổng trường” để các em tham gia vào các hoạt động của làng quê, thôn xóm”.
“Việc tạo cho học sinh thói quen đọc sách còn có ý nghĩa ở chỗ: Giáo dục đang chuyển từ truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực, chuyển từ “dạy học” sang “dạy tự học” – ông Luận khẳng định.
“Văn hóa đọc có ý nghĩa lớn trong việc chuyển đổi cách thức giáo dục trong nhà trường, từ đó cũng góp phần to lớn, bền vững vào việc nâng cao văn hóa đọc trong xã hội, từ đó văn hóa ứng xử, văn hóa tranh luận, văn hóa bảo vệ, tiếp thu… cũng sẽ được phát huy.
Chúng ta mở rộng không gian dạy và học không phải chỉ ở trên lớp, không phải chỉ ở giảng đường mà trong thư viện, ở nhà và các không gian khác trong và ngoài giờ học. Trên cơ sở đó tạo thói quen đọc sách, học tập, học tập suốt đời, học tập mọi nơi, mọi lúc, học mọi đối tượng”.
Ông Luận cũng cho biết Bộ GD-ĐT sẽ có chương trình phối hợp với các bộ ngành liên quan và các nhà xuất bản để có thể tổ chức tủ sách phụ huynh và thư viện trường học tốt hơn. “Các nhà trường tổ chức rút kinh nghiệm, nhân rộng các mô hình tủ sách phụ huynh nói riêng và thư viện trong trường học nói chung có thể làm cho phong trào đọc, văn hóa đọc của học sinh, sinh viên, thầy cô giáo, cán bộ quản lý giáo dục được nâng cao. Trên cơ sở đó, để góp phần nâng cao văn hóa đọc chung của toàn xã hội”.
Ngân Anh
Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời với chủ để “Chung tay xây dựng thư viện, thường xuyên đọc sách hay” sẽ diễn ra vào đầu tháng 10 tới. |
Tủ sách phụ huynh đầu tiên được anh Nguyễn Quang Thạch (Chương trình Sách hóa nông thôn) xây dựng và đặt tại trường THCS An Dục (Thái Bình). Tới tháng 1/2014, mô hình này đã được Sở GD-ĐT Thái Bình nhân rộng ra toàn tỉnh. Tới nay, đã có hơn 4 nghìn tủ sách phụ huynh được xây dựng tại địa phương, mỗi học sinh đọc ít nhất 5 đầu sách/năm học, nhiều gấp 5 lần trước đây. Tại nhiều trường học, mỗi học sinh đọc 20 – 30 đầu sách /năm học. |
" alt=""/>Bộ trưởng Giáo dục: “Mở cổng trường” để giáo dục học sinh

 |
Triết lý của Marva Collins được tóm tắt trong lời hứa với các học sinh: "Tôi sẽ không để các em thất bại"! Ảnh: TTXVN. |
Cuộc cách mạng mang tên Collins Là giáo viên tại thành phố Chicago, Marva Collins nhận thấy các giáo viên nơi đây mất dần niềm tin rằng, đám học trò của mình có thể thoát khỏi cảnh u tối và vô vọng khi nhìn thế hệ này nối tiếp thế hệ kia không lối thoát.
Bà cho rằng, khi giáo viên luôn luôn có những suy nghĩ như vậy thì tất nhiên học sinh sẽ bị ảnh hưởng, vì vậy bà quyết định mở một trường tư mang tên Westside Preparatory School.
Đa số những đứa trẻ này không được hệ thống học đường của thành phố Chicago chấp nhận vì cách cư xử thiếu văn hoá của chúng hoặc vì chúng không có khả năng học và vì nhiều lý do khác nữa. Do đó, West Preparatory School là cơ hội cuối cùng của chúng nếu không muốn trở thành bọn trẻ lang thang đường phố.
Không ít người tự hỏi: "Làm thế nào mà bà ta có thể dạy nổi những thành phần, mà vẫn được cho rằng, không thể giáo dục được?".
Nhưng, Collins không nghĩ vậy: "Trên khắp đất nước này, các giáo viên tồi thì hay quát mắng, la hét, và học sinh sẽ gào lên đáp trả. Các giáo viên tốt mở những lớp học đầy sự hào hứng cho học sinh. Giáo viên tốt sẽ đi tìm câu trả lời để giải quyết các vấn đề, trong khi giáo viên tồi chỉ biết đổ lỗi cho lý do là học sinh không chịu học".
Thay đổi giáo dục Mỹ Triết lý của Marva Collins được tóm tắt trong lời hứa của bà với các học sinh:"Tôi sẽ không để các em thất bại!".
Bà cũng có niềm tin sắt đá vào các học trò: "Nếu giáo viên tin rằng những đứa trẻ không thể học nổi, thì tất nhiên là chúng sẽ không học. Nếu giáo viên tin rằng xuất thân của học sinh có thể ảnh hưởng những thành tựu mà chúng có thể vươn tới, các chương trình giảng dạy sẽ làm cho đứa trẻ không thể tiếp thu".
Với Collins, sự xuất sắc trong học tập không phải thứ độc quyền chỉ dành cho những học trò có tiền và "lý lịch" đẹp.
Bà luôn cố gắng phá vỡ các rào cản khiến học sinh không chú tâm học tập:
"Tôi nói với các giáo viên của mình rằng nếu học sinh không thể ngồi yên, giáo viên có trách nhiệm phải tìm ra lý do. Có lẽ là "lớp học quá nóng", hoặc cách dạy của chúng ta có vấn đề. Chúng tôi sẽ không chấp nhận thất bại, và luôn có một lý do nào đó ngăn cản các học sinh thành công".
Collins loại bỏ hết những sách soạn riêng cho học sinh tiếp thu chậm, áp dụng một chương trình bị cho là "điên" và "không tưởng" bấy giờ. Học sinh lớp một đã biết về đại số và hình học; học sinh lớp hai tiếp cận thiên văn học; học sinh lớp năm học tiếng Latin; và học sinh lớp sáu được đọc những tác phẩm của nhà triết học Đức Nítsơ hay nhà tư tưởng Pháp Vônte, văn hào Anh Sếchxpia và đại văn hào Nga Lép Tônxtôi.
Đọc sách là một trong những phương pháp cơ bản trong triết lý giáo dục của Collins, nhưng những quyển sách như thế bị các giáo viên thời ấy cho là vượt quá xa khả năng của các học sinh xuất sắc, chứ chưa nói đến những học sinh cá biệt.
Bà không chỉ dạy học sinh đọc và viết, mà còn cho chúng tiếp cận với những tri thức lớn của nhân loại, không phân biệt một cách đầy định kiến như giáo dục Mỹ đương thời.
Nếu như giáo viên của các trường công giống như thần thánh, bảo gì học sinh nghe nấy và dạy theo phương pháp thụ động. Collins, ngược lại, sử dụng phương pháp Xôcrát (truy vấn) có sửa đổi, để có thể dạy từ cấp độ tiểu học.
Những đứa trẻ được đối thoại để tìm ra chân lý, và giờ dạy học biến thành một cuộc đối thoại tập thể đầy tích cực. Giáo viên chỉ là người định hướng liều lượng thông tin phục vụ cho cuộc đối thoại ấy.
Trong nhiều năm, Collins và phương pháp giáo dục của bà đã vấp phải một làn sóng phản đối mạnh mẽ.
Có thể nói, đây là một cuộc thai nghén vất vả, đau đớn, nhưng xứng đáng. Vượt qua tất cả những rào cản ấy, phải mất 15 năm, Collins mới thật sự làm thay đổi nền giáo dục Mỹ.
Kể từ khi chương trình đào tạo phương pháp giảng dạy mới bắt đầu ở Oklahoma vào năm 1991, Collins đã đào tạo hàng chục nghìn giáo viên, với trọng tâm là tăng cường khả năng tạo cảm hứng cho học sinh.
Năm 1996, bà được giao nhiệm vụ giám sát ba trường công lập ở Chicago đang trong thời gian quản chế vì kết quả học tập quá yếu kém của các học sinh, và đã thành công rực rỡ. Năm 2004, Collins được trao Huân chương Quốc gia vì con người nhờ những cống hiến không biết mệt mỏi ấy.
Có thể nói, việc giảng dạy mang đến cho Collins ý nghĩa cuộc đời mà không có nghề nghiệp nào có thể làm được điều đó. Với bà, việc giảng dạy làm bà thấy thỏa nguyện về mặt tình cảm mà không tiền của nào có thể mua được.
Bà cho rằng mình là “người phụ nữ giàu có nhất thế giới” và những trải nghiệm của cuộc đời làm giáo viên của bà còn đáng giá hơn “tất cả vàng bạc trong kho lưu trữ vàng lớn nhất thế giới Fort Knox”. Ngày 24/6/2015, người phụ nữ làm thay đổi nền giáo dục Mỹ qua đời ở tuổi 79.
(Theo TTXVN)
" alt=""/>Người hai lần từ chối làm bộ trưởng để thay đổi giáo dục