- Để khắc phục tình trạng thiếu máu phục vụ khám, chữa bệnh, Bộ Y tế trình 2 phương án, trong đó có đề xuất công dân tự nguyện hiến máu 1 lần/năm.
Dự thảo tờ trình dự án luật Máu và tế bào gốc của Bộ Y tế gửi lên Chính phủ cho biết, ở các nước đang phát triển, mỗi năm cần 2% dân số tham gia hiến máu. Như vậy mỗi năm, Việt Nam cần tới 1,8 triệu đơn vị máu.
Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ Y tế năm 2010, lượng máu tiếp nhận của cả nước mới đạt 1,05 triệu đơn vị, đáp ứng được 45% nhu cầu về máu điều trị và tỷ lệ dân số tham gia hiến máu mới chỉ đạt 0,9%.
 |
Sinh viên ĐHQG Hà Nội tham gia hiến máu tình nguyện |
Để khắc phục tình trạng thiếu máu phục vụ điều trị, Bộ Y tế đề xuất 2 giải pháp:
Một là: Quy định việc hiến máu là nghĩa vụ bắt buộc của công dân, phải thực hiện mỗi năm một lần nhưng có loại trừ một số trường hợp không thể hiến máu.
Với dân số hiện nay là gần 90,5 triệu người, mỗi năm nước ta sẽ có khoảng 46 triệu người phải tham gia hiến máu (trừ 30,3 triệu công dân dưới 18 tuổi và khoảng 14,2 triệu người mắc các bệnh không thể hiến máu). Người hiến máu sẽ được nghỉ việc sau khi hiến.
Hai là: Quy định việc hiến máu là tự nguyện kết hợp với tăng chi cho hoạt động vận động hiến máu.
Giả định số người hiến máu đạt tỷ lệ lý tưởng là 2% dân số thì một năm nước ta sẽ có 18,2 triệu người tham gia hiến máu.
Theo Bộ Y tế, cả 2 phương án sẽ không tác động đến nguồn chi của Nhà nước mà chỉ tăng chi của BHYT và chủ sử dụng lao động.
Theo Bộ Y tế, với phương án 1, nguồn máu sẽ ổn định, tuy nhiên quỹ BHYT sẽ tăng chi thêm khoảng 400 tỷ đồng/năm, trong đó chi phí lương khoảng 386 tỷ; 55 tỷ mua trang thiết bị. Chủ sử dụng lao động sẽ phải bỏ ra khoảng 6.400 tỷ để chi trả tiền lương cho khoảng thời gian 46 triệu lao động sử dụng đi hiến máu; bản thân người lao động sẽ phải bỏ ra gần 590 tỷ phục vụ cho việc đi lại hiến máu.
Với phương án 2, trong điều kiện lý tưởng là có 18,2 triệu người hiến máu tình nguyện trong một năm thì hằng năm sẽ tiêu tốn khoảng 2.000 tỷ đồng. Trong đó BHYT tăng chi thêm khoảng 524 tỷ/năm (364 tỷ cho vận động hiến máu), chủ sử dụng lao động sẽ phải bỏ ra khoảng 2.500 tỷ để chi trả tiền lương và bản thân người lao động sẽ phải bỏ ra trên 232 tỷ cho việc đi lại phục vụ cho việc hiến máu.
Theo tính toán, nếu chọn giải pháp 1 sẽ gây dư thừa gần 28 triệu đơn vị máu. Việc sử dụng giải pháp 1 cũng làm tăng chi phí của xã hội lên gấp đôi so với việc sử dụng giải pháp 2.
Do đó sau khi tham khảo các luật pháp quốc tế và các quốc gia đã ban hành luật về máu, Bộ Y tế cho biết ủng hộ phương án 2 kết hợp tăng chi cho hoạt động vận động hiến máu.
Sắp tới, Bộ Tư pháp sẽ tổ chức họp với các bộ ngành liên quan để tư vấn thẩm định dự án luật này trước khi trình QH cho ý kiến vào kỳ họp thứ 7/2018.
Hiện nay, việc hiến máu tại Việt Nam được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, dựa trên cơ sở cân nặng của người hiến máu.
Người có cân nặng từ 42kg đến dưới 45kg được phép hiến không quá 250ml máu toàn phần mỗi lần; người có cân nặng 45kg trở lên được phép hiến máu toàn phần không quá 9ml/kg cân nặng và không quá 500ml mỗi lần. Trung bình mỗi năm 1 người có thể hiến tối đa 4 lần.
T.Hạnh
" alt="Tin tức: Đề xuất công dân tự nguyện hiến máu 1 lần/năm"/>
Tin tức: Đề xuất công dân tự nguyện hiến máu 1 lần/năm

Các đại biểu quốc tế tham dự Hội nghị và Triển lãm Thế giới số (ITU Digital World 2020).Bà Angela Siefer - Giám đốc điều hành Liên minh Số hóa quốc gia (NDIA) cho rằng, nhận thức về việc đảm bảo công bằng trong tiếp cận số đang dần được nâng cao. Điều này được ghi nhận ngay ở các cơ quan liên bang lẫn tiểu bang của Mỹ.
Tại Mỹ, nhiều chính quyền tiểu bang đã bắt đầu hướng tới việc xây dựng mạng lưới nhằm đảo bảo tính khả dụng của Internet và tính tiếp cận của người dân, tức là ai cũng có thể sử dụng được. Đâylà một điều rất quan trọng bởi một khi nhận thức được thay đổi, người ta sẽ không thể đi giật lùi mà chỉ có thể tiến về phía trước.
 |
Bà Angela Siefer - Giám đốc điều hành Liên minh Số hóa quốc gia (NDIA) cho biết thế giới đã có bước tiến rất xa về nhận thức đối với việc thu hẹp khoảng cách số. Ảnh: Trọng Đạt |
Với Việt Nam, ông Thiều Phương Nam - TGĐ Qualcomm khu vực Đông Dương cho biết, Chính phủ Việt Nam đang rất tích cực trong việc thúc đẩy chuyển đổi số trên toàn quốc.
Không chỉ vậy, Bộ TT&TT Việt Nam còn ban hành chính sách nhằm hướng tới việc mỗi người dân một chiếc smartphone và mỗi hộ gia đình một đường truyền cáp quang băng rộng. Đây là cách mà Việt Nam đưa Internet tiếp cận tới tất cả mọi người dân.
Khoảng cách số là rào cản cho sự phát triển
Ông Stewart White - CEO của AKHET Consulting cho rằng, nếu nhìn vào tỷ lệ thất nghiệp do Covid-19, cơ sở hạ tầng viễn thông yếu kém cũng là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp cao.
Tại những vùng không có WiFi, cáp quang, người dân ở đó sẽ khó có thể làm việc từ xa. Vô hình chung họ đã gặp bất lợi so với những người đồng nghiệp làm ở những nơi may mắn hơn. Với học sinh, sinh viên, việc không được tiếp xúc với Internet sẽ khiến họ khó có thể theo kịp với chương trình học ở trường bởi mất đi cơ hội học tập trực tuyến.
 |
Ông Stewart White - CEO của AKHET Consulting. Ảnh: Trọng Đạt |
Theo ông Ralph Mupita - CEO nhà mạng MTN của Nam Phi, cơ sở hạ tầng viễn thông phải đứng ở vị trí cao trong danh sách nhu cầu của người dân.
Trong cuộc khủng hoảng do Covid-19, hàng triệu người trên thế giới không được tiếp cận với mạng Internet. Người dân ở các khu vực xa xôi đã phải chịu thiệt thòi hơn do khó tiếp cận với dịch vụ y tế, giáo dục do khoảng cách về mặt địa lý.
Khoảng cách này sẽ dần được thu hẹp nếu những người này tiếp cận được với cơ sở hạ tầng viễn thông. Do vậy, cần phải mang cơ hội tiếp cận với Internet đến các vùng sâu, vùng xa và những người dân yếu thế.
 |
Ông Ralph Mupita - CEO nhà mạng MTN của Nam Phi. Ảnh: Trọng Đạt |
Nhiều chuyên gia cho biết, "khoảng cách số" có nguyên nhân sâu xa từ việc các doanh nghiệp tư nhân luôn muốn có mức tỷ suất lợi nhuận cao, trong khi đó, việc cung cấp dịch vụ cho các nhóm đối tượng yếu thế lại không mang đến lợi nhuận như kỳ vọng.
Áp lực về mặt thương mại là một trong những lý do chính giải thích vì sao thế giới chưa thể hoàn thành mục tiêu xóa nhòa khoảng cách số. Nhiều doanh nghiệp nhìn thấy khoảng trống thị trường ở đó nhưng vẫn còn do dự trong việc đưa ra quyết định đầu tư.
Các doanh nghiệp cũng kỳ vọng về tính ổn định của môi trường pháp lý và tiềm năng của thị trường nếu học đầu tư dài hạn. Để giải quyết vấn đề này, cần phải phát huy mô hình đối tác công tư, trong đó, nhà nước phải các cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp.
Thế giới phải cùng nhau thu hẹp khoảng cách số
Nhìn chung, tại hội nghị, các chuyên gia trong và ngoài nước đều đồng ý với nhận định rằng, đây là thời điểm mà thế giới phải cùng chung tay xác định các ưu tiên để tăng tốc quá trình phổ cập băng thông rộng và thu hẹp giảm khoảng cách số.
Theo ông Houzin Zhao - Tổng thư ký Liên minh Viễn thông Thế giới (ITU), tương tự như nguồn nước, không khí, việc kết nối với mạng Internet và truyền thông là những quyền cơ bản giúp đảm bảo cuộc sống của con người.
 |
Tổng thư ký Liên minh Viễn thông Thế giới (ITU) - Houzin Zhao. Ảnh: Trọng Đạt |
“Khác với điện và nước, thị trường viễn thông, Internet băng thông rộng có sức cạnh tranh rất cao với sự tham gia tích cực từ phía khu vực tư nhân. Do vậy, chúng ta hoàn toàn có cơ hội đầu tư để nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng và mở rộng mạng lưới. Để làm được điều này, đương nhiên cần tới các cơ chế phối hợp từ phía chính phủ.”, ông Houzin Zhao nói.
Trong quá trình này, các cơ quan chính phủ đóng vai trò trung tâm trong việc đưa ra các cơ chế khuyến khích . Ví dụ như theo hình thức viện trợ, tài trợ, bảo lãnh, đưa ra các tiêu chuẩn, quy chuẩn, cơ chế mang tính chất hỗ trợ doanh nghiệp.
Để thu hẹp khoảng cách số, điều mà các chính phủ cần phải làm là tăng cường việc tiếp cận của người dùng và tính sẵn có của công nghệ.
Trong đó, khả năng tiếp cận phải được cải thiện bằng việc phát triển kỹ năng số và phổ cập những kỹ năng này tới các nhóm đối tượng là trẻ em và người cao tuổi. Về điều này, hơn lúc nào hết, sự tham gia của toàn thể cộng đồng là vô cùng quan trọng.
 |
Hội nghị và Triển lãm Thế giới số (ITU Digital World 2020) hiện đang được tổ chức từ ngày 20-22/10 dưới hình thức trực tuyến. |
Với việc tăng cường tính sẵn có của công nghệ, điều này có thể cải thiện bằng việc sử dụng công nghệ truyền dẫn vệ tinh để đưa Internet băng thông rộng tới các vùng sâu, vùng xa,. Bên cạnh đó, cần phải tăng mật độ phủ sóng 3G, 4G và phát triển các công nghệ khác để mở rộng vùng phủ.
Bên cạnh đó, cần phát triển các mẫu thiết bị di động với giá cả phải chăng (dưới 20 USD) và giảm giá thành dịch vụ để mọi người dân đều có thể sử dụng Internet.
Nhiều chuyên gia cũng gợi ý về việc nên áp dụng một mức chỉ tiêu nhất định về số lượng dịch vụ có giá cả phải chăng. Điều này cũng tương tự như việc tại một số nơi, số lượng nhà ở xã hội phải chiếm khoảng 30% tổng số căn hộ trong một dự án về nhà ở.
Chỉ khi tính sẵn có của công nghệ và việc tiếp cận của người dùng được nâng cao, khoảng cách số trên thế giới mới có thể bị thu hẹp.
Trọng Đạt
" alt="Thu hẹp khoảng cách số là loại bỏ rào cản cho sự phát triển"/>
Thu hẹp khoảng cách số là loại bỏ rào cản cho sự phát triển

Lễ ra mắt nền tảng phát triển Chính phủ số Flex Digital là hoạt động tiếp nối chuỗi sự kiện giới thiệu các nền tảng số “Make in Việt Nam” để thực hiện Chương trình chuyển đổi số quốc gia.Xây dựng Chính phủ số bằng các nền tảng
Ngày 4/12, nhằm góp phần triển khai chương trình hành động của Diễn đàn công nghệ mở Việt Nam 2020 với khẩu hiệu “Phát triển và làm chủ công nghệ số thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia”, Bộ TT&TT đã ra mắt nền tảng phát triển Chính phủ số Flex Digital.
Nền tảng phát triển Chính phủ số Flex Digital là một nền tảng công nghệ được Công ty cổ phần Phát triển Nguồn mở và Dịch vụ FDS xây dựng dựa trên chuẩn mở và công nghệ mở, cung cấp một giải pháp tổng thể để phát triển Chính phủ số/chính quyền số trên cơ sở 9 thành phần chính.
Flex Digital được xây dựng trên cơ sở kế thừa các thành tựu công nghệ được mở mã nguồn trên thế giới, từ đó giúp đẩy nhanh việc hoàn thiện giải pháp và sản phẩm đáp ứng nhu cầu phát triển Chính phủ số tại Việt Nam.
 |
Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Huy Dũng nhấn mạnh, nền tảng phát triển Chính phủ số dựa trên công nghệ mở là một trong những nền tảng quan trọng trong 5 năm tới chúng ta sẽ tập trung triển khai. |
Phát biểu tại sự kiện ra mắt, Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Huy Dũng nhận định, nền tảng phát triển Chính phủ số Flex Digital đã thể hiện được các định hướng lớn của Bộ TT&TT trong chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số. Nền tảng phát triển Chính phủ số dựa trên công nghệ mở là một trong những nền tảng quan trọng trong 5 năm tới chúng ta sẽ tập trung triển khai.
Lý giải rõ vì sao Bộ TT&TT định hướng triển khai theo hướng công nghệ mở để phát triển và làm chủ công nghệ số, phục vụ chuyển đổi số quốc gia, ông Dũng nhấn mạnh, công nghệ mở giúp chúng ta hạn chế được chi phí bản quyền, giúp phát triển năng lực, sự chủ động và cũng giúp cho các hệ thống an toàn hơn.
“Công nghệ mở ở đây không chỉ dừng lại ở mã nguồn mở, mà còn là tiêu chuẩn mở, dữ liệu mở và là văn hóa chúng ta phát triển các hệ thống theo định hướng mở”, ông Dũng lưu ý thêm.
 |
Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Huy Dũng và các đại biểu thực hiện nghi thức ra mắt nền tảng phát triển Chính quyền số Flex Digital. |
Cùng với đó, Bộ TT&TT cũng đã xác định một trong những giải pháp đột phá để triển khai Chính phủ số, chuyển đổi số là dựa trên các nền tảng.
Nhấn mạnh chiến lược phát triển Chính phủ số trong thời gian tới là triển khai dựa trên các nền tảng, ông Dũng cho biết, trong Chiến lược quốc gia về phát triển Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, Bộ TT&TT sẽ tham mưu Thủ tướng Chính phủ đưa ra danh mục những nền tảng theo quy mô cấp bộ, ngành cần phải triển khai.
“Nếu như giai đoạn trước, chúng ta phát triển theo các hệ thống thông tin, khi tích hợp với nhau thì tích hợp điểm - điểm; thì trong 5 năm tới, dứt khoát chiến lược của chúng ta là triển khai dựa trên nền tảng và dữ liệu được tích hợp dựa trên nền tảng”, ông Dũng nhấn mạnh
Nói về hệ sinh thái công nghệ số phục vụ chuyển đổi số quốc gia, đại diện Bộ TT&TT cũng cho rằng, các doanh nghiệp CNTT-Viễn thông lớn cần tập trung vào phát triển các nền tảng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tập trung vào ứng dụng và dịch vụ.
Nền tảng Flex Digital giúp các cơ quan, đơn vị giảm 50% chi phí
Theo ông Trần Kiêm Dũng, Giám đốc Công ty FDS, Flex Digital không phải là một phần mềm mà là một nền tảng được phát triển và tích hợp bởi 12 thành phần phần mềm nguồn mở khác nhau và đã được FDS hiệu chỉnh, tối ưu hóa; tích hợp các phần mềm lại; cung cấp giải pháp dưới dạng dịch vụ.
 |
Giám đốc Công ty FDS Trần Kiêm Dũng khẳng định, Flex Digital là một nền tảng được phát triển và tích hợp bởi 12 thành phần phần mềm nguồn mở khác nhau, có sẵn và đã được FDS hiệu chỉnh, tối ưu hóa. |
Ưu điểm của nền tảng này là tái sử dụng được các chuẩn công nghiệp phù hợp với xu thế phát triển công nghệ hiện có trên thế giới. Cách tiếp cận này cho phép làm chủ được hoàn toàn về công nghệ, giảm được giá thành sản xuất và tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của chính phủ số ở Việt Nam.
Trao đổi với ICTnews, đại diện đơn vị phát triển nền tảng chia sẻ, Flex Digital khắc phục tình trạng sử dụng các dịch vụ hạ tầng thiếu định hướng và lãng phí; tạo cơ chế cho việc dễ dàng tích hợp dữ liệu và ứng dụng, độc lập với các ứng dụng nghiệp vụ.
Bên cạnh đó, nền tảng Flex Digital cũng quy chuẩn hoá chất lượng ứng dụng thông qua việc đảm bảo tính năng, hiệu năng và an toàn bảo mật. Đặc biệt, việc sử dụng nền tảng số cho phép rút ngắn thời gian phát triển ứng dụng tối thiểu 50%.
 |
Các thành phần của nền tảng Flex Digital hiện đã được triển khai hiệu quả tại 11 bộ ngành, 5 tỉnh thành và 2 tổ chức quốc tế. |
Riêng về chi phí sử dụng, đại diện Công ty FDS cho hay, chi phí sử dụng nền tảng Flex Digital được tính bằng việc sử dụng các dịch vụ trong nền tảng. Và nếu so với các dịch vụ nền tảng nước ngoài, Flex Digital giúp các cơ quan, đơn vị giảm chi phí tối thiểu 50%.
Được biết, các thành phần của nền tảng Flex Digital hiện đã được triển khai hiệu quả tại 11 bộ ngành, 5 tỉnh thành và 2 tổ chức quốc tế. Trong thời gian tới, FDS sẽ tiếp tục hoàn thiện nền tảng, sử dụng để xây dựng thêm các sản phẩm phần mềm cụ thể phục vụ quá trình chuyển đổi số tại các bộ, ngành, địa phương.
9 thành phần chính của nền tảng phát triển Chính phủ số Flex Digital:
- OpenCPS: Nền dịch vụ công trực tuyến dùng để triển khai cổng dịch vụ công trực tuyến và hệ thống thông tin một cửa điện tử của bộ ngành/tỉnh thành.
- FlexMobile: Nền tảng phát triển các ứng dụng di động cung cấp giao diện tích hợp trên thiết bị di động dành cho cán bộ để tra cứu thông tin, nhận thông báo và tương tác với các ứng dụng phục vụ quản lý điều hành nội bộ.
- FlexView: Nền tảng phát triển các loại hình ứng dụng trên web trong đó có ứng dụng nghiệp vụ chuyên ngành, ứng dụng hành chính nội bộ, cổng thông tin/dữ liệu, trung tâm quản lý điều hành thông minh.
- FlexData: Nền tảng quản lý tích hợp và chia sẻ dữ liệu số dùng để quản lý dữ liệu tham chiếu, dữ liệu chủ được dùng chung trong cơ quan; phát triển các cơ sở dữ liệu quản lý thông tin nghiệp vụ chuyên ngành; cổng chia sẻ dữ liệu mở của bộ ngành/tỉnh thành.
- FlexMap: Nền tảng dịch vụ dữ liệu bản đồ số dùng để quản lý cơ sở hạ tầng dữ liệu không gian; cung cấp dữ liệu bản đồ nền trên web (WebGIS).
- FlexStat: Nền tảng quản lý thông tin báo cáo, thống kê cung cấp công cụ hỗ trợ quản lý điều tra, thu thập thông tin, xử lý báo cáo và tổng hợp số liệu thống kê theo các chế độ báo cáo định kì hoặc đột xuất.
- FlexConnect: Nền tảng dịch vụ tích hợp ứng dụng bảo đảm các chức năng của LGSP; cung cấp các mô-đun kết nối để sẵn sàng tích hợp giữa các hệ thống ứng dụng.
- FlexNet: Nền tảng dịch vụ cộng tác và chỉ đạo điều hành cung cấp các dịch vụ chia sẻ dùng chung để liên kết người dùng trong các hoạt động cộng tác và chỉ đạo điều hành trên mạng xã hội nội bộ của cơ quan.
- FlexInsight: Nền tảng dịch vụ phân tích dữ liệu thông minh dùng để quản lý kho dữ liệu tổng hợp; phân tích dữ liệu và tạo lập nhanh các báo cáo trực quan theo nhu cầu của người sử dụng." alt="Bộ TT&TT ra mắt nền tảng mở phát triển Chính phủ số Flex Digital"/>
Bộ TT&TT ra mắt nền tảng mở phát triển Chính phủ số Flex Digital