
Estonia đã số hóa hầu hết các dịch vụ công, từ khai thuế, đăng ký kinh doanh, đến bỏ phiếu điện tử. Hơn 99% dịch vụ công có thể được truy cập trực tuyến 24/7, giảm thiểu thời gian và chi phí cho cả chính phủ và người dân.
Ngoài ra, chính phủ còn xây dựng X-Road, một nền tảng trao đổi dữ liệu quốc gia, cho phép các cơ quan công quyền và tổ chức tư nhân chia sẻ thông tin an toàn, hiệu quả.
Hệ thống này đảm bảo rằng dữ liệu chỉ cần nhập một lần và có thể được sử dụng bởi nhiều bên, giảm thiểu sự trùng lặp và tăng tính minh bạch.
Việc số hóa đã giúp Estonia tiết kiệm đáng kể chi phí hành chính và tăng hiệu quả trong cung cấp dịch vụ. Theo ước tính, việc khai thuế trực tuyến chỉ mất khoảng 5 phút và 98% người dân sử dụng dịch vụ này.
Môi trường kinh doanh thuận lợi với thủ tục nhanh chóng và minh bạch đã thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy sự phát triển của các công ty công nghệ như Skype, TransferWise (nay là Wise) và Bolt.
Bỏ phiếu điện tử (i-Voting) được giới thiệu từ năm 2005, cho phép người dân bỏ phiếu từ bất kỳ đâu. Điều này đã tăng cường sự tham gia của cử tri và làm cho quá trình bầu cử trở nên thuận tiện hơn.
Biến nguy thành cơ
Cuộc tấn công mạng năm 2007 nhằm vào Estonia đánh dấu cuộc tấn công mạng quy mô lớn đầu tiên trên thế giới nhằm vào một quốc gia có chủ quyền, làm tê liệt nhiều hệ thống trọng yếu trong thời gian dài.
Vụ tấn công này không chỉ để lại hậu quả nghiêm trọng về mặt kinh tế và xã hội mà còn thúc đẩy Estonia, cũng như các tổ chức quốc tế, đặc biệt là NATO, thay đổi cách nhìn nhận và ứng phó với các mối đe dọa an ninh mạng.
Từ ngày 27/4 đến ngày 18/5/2007, các hệ thống kỹ thuật số và hạ tầng mạng của quốc gia Baltic bị tấn công từ chối dịch vụ (DDoS) có nguồn gốc từ nhiều địa chỉ IP khác nhau trên toàn cầu.
Các website chính phủ, cơ quan công quyền, tổ chức tài chính, cơ sở hạ tầng truyền thông và viễn thông bị tấn công nghiêm trọng, thậm chí dịch vụ điện thoại di động cũng tê liệt.
Từ sự cố này, Estonia đã nhận thức được tầm quan trọng của việc không chỉ bảo vệ hạ tầng mạng của quốc gia mà còn phát triển các giải pháp an ninh mạng tiên tiến dựa trên công nghệ Blockchain để phòng tránh các cuộc tấn công trong tương lai.
Trong đó, điểm nhấn là sáng kiến tiên phong về an ninh mạng, có tên Chương trình Cybersecurity as a Service (Dịch vụ an ninh mạng - CSaaS), nhằm cung cấp an ninh mạng linh hoạt và hiệu quả, hỗ trợ không chỉ cho các tổ chức chính phủ mà còn cho các doanh nghiệp và cá nhân.
CSaaS của Estonia là một hệ thống bao gồm nhiều dịch vụ bảo mật được cung cấp dưới dạng dịch vụ, cho phép các tổ chức và cá nhân có thể sử dụng một cách linh hoạt và tùy chỉnh.
Các dịch vụ này bao gồm quản lý rủi ro, giám sát luồng dữ liệu, phòng thủ mạng tự động và chủ động tích hợp AI và máy học, mã hóa dữ liệu đám mây, xác thực hai yếu tố…
Bên cạnh đó, Estonia đẩy mạnh nâng cao nhận thức người dân về an ninh mạng, thông qua loạt chương trình giáo dục và đào tạo về “vệ sinh mạng” (cyber-hygiene) với mục đích nâng cao nhận thức cộng đồng về các nguy cơ mạng và cách phòng tránh, giúp người dân hiểu rõ hơn về các biện pháp bảo mật cần thiết trong cuộc sống số hàng ngày.
Với một nền tảng mạnh mẽ và tầm nhìn dài hạn, CSaaS của Estonia không chỉ đóng góp vào việc bảo vệ an ninh mạng quốc gia mà còn là hình mẫu tiên tiến cho các quốc gia khác học hỏi và triển khai trong kỷ nguyên số.
Trung tâm phòng thủ mạng
NATO chính thức công nhận không gian mạng là một miền hoạt động chiến tranh vào năm 2016, tương tự như các miền truyền thống khác như không gian, biển, đất liền và không trung.
Điều này có nghĩa là các hoạt động trong không gian mạng có thể được coi như một phần của chiến tranh hiện đại, và có thể kích hoạt các điều khoản phòng thủ tập thể của khối.
Với kinh nghiệm thực tiễn của Estonia trong cuộc tấn công mạng 2007, cơ sở là nền tảng xã hội thông tin toàn diện và cam kết của chính phủ, năm 2008, NATO quyết định thành lập Trung tâm Phòng thủ Không gian mạng (NATO Cooperative Cyber Defence Centre of Excellence - CCDCOE) đặt tại Tallinn.
Trung tâm này là một cơ sở nghiên cứu và huấn luyện quốc tế hàng đầu về an ninh mạng, đóng vai trò chính trong việc xây dựng các chiến lược phòng thủ mạng cho NATO và các quốc gia thành viên.
Trong khi đó, Estonia cũng đã chứng minh năng lực xây dựng và duy trì hệ thống phòng thủ mạng mạnh mẽ. Sau cuộc tấn công mạng năm 2007, chính phủ Estonia đã đầu tư mạnh vào công tác an ninh mạng, bao gồm việc phát triển các công nghệ mã hóa tiên tiến, sử dụng blockchain để bảo vệ dữ liệu công, và phát triển các giải pháp phòng thủ mạng linh hoạt.
Quốc gia này cũng đã xây dựng Đội Ứng phó Khẩn cấp An ninh mạng Quốc gia (CERT-EE), một trong những đội chuyên gia hàng đầu tại châu Âu trong việc xử lý và phản ứng nhanh trước các cuộc tấn công mạng.
Việc NATO đặt CCDCOE tại Estonia không chỉ giúp nước này tăng cường an ninh mạng mà còn biến đây trở thành trung tâm hợp tác về an ninh mạng, nơi các quốc gia thành viên có thể chia sẻ thông tin, nghiên cứu và phát triển các giải pháp phòng thủ mạng mới.
Như vậy, từ một nạn nhân, Estonia đã trở thành quốc gia tiên phong trong bảo vệ không gian mạng, cùng với đó là vị thế nâng tầm đáng kể trong khu vực châu Âu nói chung và NATO nói riêng.
(Theo OECD, GovInsider, CDI)
Nhóm bạn nữ này thường xuyên đe doạ, xúc phạm, có lúc cầm vở tát vào mặt D. ở trong lớp học vào giờ ra chơi. Thi thoảng tan học, nhóm bạn có chặn bên ngoài trường để gây căng thẳng thậm chí đánh nữ sinh này.
Bệnh nhân bị dọa nếu mách giáo viên hoặc bố mẹ sẽ bị đánh nhiều hơn nên em không dám nói. Cô bé chỉ nói với mẹ về việc gặp một vài vấn đề với bạn trên lớp nhưng không chia sẻ cụ thể bị bắt nạt. Khi đó, mẹ của D. cho rằng việc trẻ con, tuổi học trò nên bảo con tự giải quyết.
Tình trạng bắt nạt kéo dài khoảng gần một năm khiến bệnh nhân luôn lo lắng, căng thẳng và sợ hãi, dễ cáu gắt nổi nóng với người thân, học tập bị giảm sút. Bệnh nhân nghỉ học thường xuyên hơn. Tính cách lầm lì và ít nói hơn. Sinh hoạt hàng ngày thay đổi, ăn uống kém, đêm ngủ chập chờn.
Bố mẹ thấy D. ít ra ngoài. Mỗi khi đi học hoặc phải ra khỏi nhà thường đeo khẩu trang kín, mặc áo dài màu đen, đội mũ kín.
Khoảng 2 tuần trước khi vào viện bệnh nhân tự ý nghỉ hẳn học ở nhà, chỉ ở trong phòng khóc lóc, có suy nghĩ tiêu cực bi quan, không muốn sống, có ý nghĩ tự sát để giải thoát, rạch tay.
Thấy con thay đổi so với trước đây, mẹ cô bé gặng hỏi nhưng bệnh nhân không chia sẻ hoặc trả lời gắt gỏng, nhát gừng. Gia đình lo lắng nên đưa con đi khám và được nhập viện theo dõi.
Bác sĩ Đỗ Thùy Dung, Phòng Sức khỏe tâm thần trẻ em và thanh thiếu niên, Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai, cho biết bé D. vào viện trong giai đoạn trầm cảm nặng không có loạn thần nhưng có ý tưởng tự sát và hành vi tự hủy hoại bản thân.
Bệnh nhân được điều trị nội trú 21 ngày. Một tuần đầu, bệnh nhân ít tương tác, chia sẻ với người thân và nhân viên y tế. Tuần tiếp theo, bệnh nhân cởi mở hơn, chia sẻ các vấn đề của bản thân, tích cực giao tiếp, hoạt động, tương tác với bệnh nhân khác, khí sắc khá hơn, giảm ý tưởng tự sát, kiểm soát và giảm hành vi tự hủy hoại, ăn uống tốt hơn và giấc ngủ cải thiện. Bệnh nhân được xuất viện về nhà, tái khám tại phòng khám ngoại trú bệnh viện sau 2 tuần.
Bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Hoàng Yến, Phòng Sức khỏe tâm thần trẻ em và thanh thiếu niên, Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai, cho biết tại Việt Nam những số liệu về tình trạng bạo lực học đường còn thiếu. Bắt nạt học đường có nhiều dạng khác nhau như bắt nạt thể chất, bằng quan hệ xã hội, qua mạng, lời nói, tình dục, trong đó dùng lời nói là hành vi phổ biến nhất.
Theo bác sĩ Yến, hành vi bắt nạt bằng lời nói hay xảy ra ở nữ như gọi tên, biệt danh, lan truyền tin đồi về ai đó, la hét hoặc nói chuyện với ai đó bằng giọng thô lỗ, không tử tế, không có lý do chính đáng. Một số trường hợp chế giễu giọng nói hoặc phong cách nói của ai đó, sử dụng ngôn ngữ làm nhục người khác… Người bị bắt nạt thường ảnh hưởng về thể chất và tinh thần, stress kéo dài, dẫn tới các vấn đề trầm cảm lo âu thậm chí tự sát.
Để phòng bắt nạt học đường, bác sĩ Yến cho biết nhà trường cần xây dựng môi trường nói không với bắt nạt học đường, giáo dục học sinh tôn trọng quyền cá nhân, sức khỏe, nhân phẩm của người khác. Khuyến khích các phương thức ứng phó thích hợp, tìm kiếm sự hỗ trợ.
Sau khi thăm khám và xét nghiệm, bác sĩ xác định đây là trường hợp u mỡ khổng lồ vùng bìu trong hội chứng Madelung, một thể bệnh lý khá hiếm gặp, liên quan đến tiền sử lạm dụng rượu. Ê-kíp phẫu thuật đã tiến hành loại bỏ khối u, đồng thời phẫu thuật tạo hình tái tạo, trả bìu và dương vật về hình dáng bình thường.
Trọng lượng khối u lên tới 1,6kg. Bác sĩ Dung cho rằng đây có thể coi là khối u mỡ bìu trong hội chứng Madelung khổng lồ nhất thế giới.